Giải bài toán về nguyên, phụ liệu cho dệt may Việt Nam (Tiếp theo và hết) (*)

[ad_1]

E dè đầu tư

Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của DMVN đạt hơn 39 tỷ USD nhưng nhập khẩu NPL chiếm tới 22,36 tỷ USD. Điều này cho thấy DMVN hiện phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung nguyên liệu từ nước ngoài, phản ánh sự mất cân đối trong chuỗi toàn cầu khi chúng ta mới tham gia công đoạn cắt may thuê là chính.

Lý giải về vấn đề này, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco) Nguyễn Xuân Dương cho biết, trong chuỗi cung ứng dệt may, Việt Nam đang ở khâu sử dụng nhân công nhiều nhất, chiếm khoảng 80% tổng số lao động. 20% còn lại chia cho các khâu như trồng bông, dệt, nhuộm hoàn tất đến khâu phân phối, lưu thông. Do 80% lao động nằm ở khâu may và chia đều cho các khâu khác cho nên lợi nhuận mang lại rất thấp. Thế nhưng, phần lớn các DN vẫn lựa chọn phương thức sản xuất cắt may thuê là chính bởi DN ngại đầu tư các trang thiết bị hiện đại, chiếm nguồn vốn lớn, hiệu quả hoạt động không cao. Đồng quan điểm, Giám đốc chi nhánh Hải Phòng (Công ty cổ phần Vinatex Quốc tế) Vũ Quyết Chiến khẳng định, các DN chủ yếu lựa chọn phương thức cắt may thuê bởi chưa xây dựng được hệ thống phân phối hay thiết kế để chào mẫu cho khách hàng cho nên phải chấp nhận làm gia công, đồng thời hạn chế rủi ro và không phải sử dụng nguồn vốn lớn. Muốn gia tăng giá trị trong chuỗi, bắt buộc DN phải đầu tư, xây dựng được chuỗi cung ứng NPL, từng bước chuyển sang phương thức sản xuất ODM (thiết kế sản phẩm gốc), OBM (sản xuất thương hiệu gốc),…

Hiện nay DMVN đang nằm ở vùng trũng, vùng thấp trong chuỗi dệt may toàn cầu. Nếu chủ động được nguồn NPL, đẩy mạnh được khâu thiết kế chắc chắn giá trị mang lại sẽ cao lên. Đó còn chưa nói tới khâu phân phối, khi làm được điều này, giá trị sẽ tăng rất cao. Tuy nhiên, ngoài khó khăn về tài chính, cơ chế chính sách hiện đang là các rào cản cho sự phát triển còn có khó khăn khác như về nguồn nhân lực phục vụ sản xuất đang thiếu và yếu. Có nhiều nhà máy đầu tư vốn rất lớn nhưng thất bại do thiếu nguồn lực chất lượng cao. Nhìn nhận ở khía cạnh DN, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty May 10, Bạch Thăng Long khẳng định, câu chuyện về môi trường vẫn là trở ngại lớn nhất để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may. “Không đánh đổi vấn đề môi trường để làm kinh tế” là chủ trương đúng đắn, cũng là xu hướng chung hiện nay của thế giới. Nhưng cũng chính vì vậy, hầu hết các địa phương hiện nay đều không “chào đón” các dự án liên quan đến dệt, nhuộm – ông Bạch Thăng Long nhấn mạnh.

Quan điểm của ngành dệt may là muốn phát triển thì phải chủ động được nguồn cung, phải có công nghiệp phụ trợ. Đây là vấn đề rất phức tạp vì chi phí lớn cũng như vấn đề về môi trường. Do đó, cần sớm có quy hoạch các khu công nghiệp dành riêng cho dệt nhuộm với cơ sở hạ tầng được chuẩn bị sẵn và bảo đảm tốt cho hoạt động của DN, nhất là về xử lý an toàn cho môi trường. Nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách quy hoạch, đầu tư sẵn các khu tập trung, khu công nghiệp có hệ thống xử lý chất thải hoàn thiện. Khi đó DN chỉ cần đến thuê đất và nộp phí môi trường (theo dạng đầu tư trả góp dài hạn cho hệ thống xử lý chất thải), chứ để mình DN dệt nhuộm tự giải quyết, tự đầu tư sẽ rất khó khăn. Nếu làm được, giá cũng không thể cạnh tranh lại các nguồn cung đang có sẵn trên thị trường. Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu cho biết, “nút thắt cổ chai” của ngành nằm ở khâu sản xuất dệt, nhuộm hoàn tất. Việc đầu tư vào các dự án dệt, nhuộm hoàn tất không phải là bài toán dễ giải, vì vốn đầu tư cao cũng như đòi hỏi trình độ cán bộ kỹ thuật vận hành quản lý tốt. Mặt khác, đầu tư vào các dự án dệt, nhuộm tiềm ẩn nhiều rủi ro, đòi hỏi phải đầu tư trong dài hạn, trong khi đó đầu tư vào sợi, may gia công vừa đòi hỏi vốn ít lại quay vòng thu hồi vốn nhanh. Chính vì vậy, nhiều DN không mấy mặn mà khi đầu tư vào lĩnh vực NPL, nhất là khi Việt Nam chưa thể cạnh tranh về giá và quy mô so với các DN Trung Quốc hay các DN FDI.

Tận dụng triệt để các cơ hội

Theo số liệu của Bộ Công thương, hiện nay hàm lượng giá trị gia tăng trong nước của DMVN ở mức hơn 50%. Chỉ tính riêng năm 2019, Việt Nam đã chi 2,47 tỷ USD để nhập khẩu bông các loại, 2,3 tỷ USD nhập xơ, sợi, 12,69 tỷ USD để nhập vải, 5,61 tỷ USD nhập NPL dệt may, da giày chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc. Việc không chủ động được NPL trong nước mà phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài sẽ làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các DN. Khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã và sắp có hiệu lực như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – châu Âu (EVFTA) sẽ là cơ hội để các DN DMVN mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, muốn tận dụng được các cơ hội, đòi hỏi DN phải chủ động được nguồn NPL, đáp ứng yêu cầu xuất xứ từ sợi trở đi đối với CPTPP và từ vải trở đi đối với EVFTA. Mặt khác, khi tham gia các hiệp định thương mại tự do sẽ thúc đẩy đầu tư sản xuất NPL, hình thành ngành công nghiệp phụ trợ cho DMVN. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ coi Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn nếu tính đến các nhân tố như cơ hội thị trường, chiến lược nguồn cung thay thế lẫn chi phí sản xuất. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét đến việc dịch chuyển sản xuất, chuyển giao công nghệ, đầu tư chuỗi cung hoàn thiện nhằm thúc đẩy xuất khẩu tận dụng các cơ hội từ hiệp định thương mại tự do mang lại. Việc này giúp sản xuất NPL và chuỗi cung dệt may của Việt Nam hoàn thiện hơn, không còn phụ thuộc nguồn NPL nhập khẩu.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là cơ hội, còn trên thực tế DMVN vẫn phụ thuộc chủ yếu nguồn NPL nhập khẩu. Ngay tại thị trường trong nước, ngoài những DN FDI lớn sở hữu cả chuỗi cung ứng trong đó có dệt, nhuộm hoàn tất, một số DN lớn trong nước cũng chỉ đầu tư khâu dệt nhuộm quy mô nhỏ, chất lượng ở mức trung bình. Số còn lại, chủ yếu là DN vừa và nhỏ, nằm phân tán ở các làng nghề, với công nghệ lạc hậu, sản phẩm chất lượng thấp,… Đề cập tới khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Hóa dầu và Xơ sợi Việt Nam (VNPoly) Đào Văn Ngọc cho biết, muốn đáp ứng yêu cầu xuất xứ của các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA, bắt buộc các DN phải tìm và sử dụng nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao trong nước. Hiện VNPoly đang vận hành 10 dây chuyền sợi xơ dài (DTY) với khả năng cung cấp khoảng 660 tấn/tháng và sẽ khai thác tối đa 27 dây chuyền DTY trong năm 2020, khi đó sẽ cung cấp khoảng 1.500 tấn/tháng. Với việc duy trì ổn định sản xuất trong giai đoạn vừa qua cùng với sự hợp tác với Tập đoàn Shinkong, VNPoly sẽ cung cấp ra thị trường các sản phẩm cấp cao, thân thiện với môi trường mà các hãng thời trang lớn đang rất cần. Bên cạnh đó, rất mong Nhà nước có chiến lược và chính sách hỗ trợ phát triển hoàn thiện chuỗi sản phẩm của ngành dệt may, trong đó có sản xuất xơ sợi, dệt và nhuộm để đáp ứng các hiệp định thương mại đã ký, tạo tiền đề cho ngành DMVN phát triển xứng tầm thế giới. Đồng thời, cần xử lý triệt để vấn nạn gian lận thương mại, bán phá giá từ các nước như Trung Quốc, Ấn Độ,… để bảo đảm cho các DN sản xuất xơ sợi, kéo sợi, dệt, nhuộm trong nước được cạnh tranh một cách bình đẳng với sản phẩm nhập khẩu. Qua đó, thu hút các nhà đầu tư mới cho ngành này để đáp ứng đầy đủ nguồn nguyên liệu chất lượng cao và ổn định cho ngành DMVN.

Theo Tổng Giám đốc Vinatex, Lê Tiến Trường, đặc thù của dệt may là ngành cung ứng theo chuỗi. Người thiết kế sở hữu các thương hiệu thời trang thường lựa chọn cả chuỗi cung ứng từ sản xuất nguyên liệu – sản xuất sản phẩm dệt may – vận chuyển – phân phối. Do đó, muốn ngành DMVN phát triển, cần thúc đẩy công nghiệp phụ trợ. Trong đó, thành lập được những cụm công nghiệp để tập trung sản xuất NPL, giải quyết nút thắt về xử lý nước thải của khâu nhuộm hoặc các loại NPL liên quan đến môi trường. Đồng thời, cần có các chính sách ưu đãi cho các DN đầu tư trong cụm công nghiệp NPL về thuế đất, thuế VAT, thu nhập, miễn giảm thuế tùy theo chủng loại sản phẩm cần khuyến khích đầu tư. Bên cạnh đó, các DN cần phải đẩy mạnh liên kết với nhau, tạo thành chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, các DN trong nước liên kết, hợp tác với DN FDI để chủ động nguồn NPL làm hàng xuất khẩu,…

Đồng quan điểm, Chủ tịch Vitas, Vũ Đức Giang kiến nghị, Nhà nước cần khẩn trương xây dựng quy hoạch, phát triển ngành dệt may tầm nhìn 2035-2040, trong đó, đặc biệt chú ý xây dựng các khu công nghiệp dệt may có xử lý nước thải hiện đại, để chuỗi dệt – nhuộm – may – hoàn tất được đầu tư phát triển, đóng góp vào nguồn cung toàn cầu và bớt phụ thuộc vào nhập khẩu, tận dụng tốt nhất ưu đãi từ các hiệp định thương mại mà chúng ta đã ký kết. Ngoài ra, Chính phủ cần đầu tư các cảng hàng không, đường thủy, hệ thống kho vận,… nhằm thu hút các nhà đầu tư cho phần cung thiếu hụt NPL dệt may,… Với nỗ lực của các DN cùng với các cơ chế chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hy vọng, ngành DMVN sẽ sớm thoát khỏi tình trạng thiếu tự chủ về nguyên liệu, từng bước làm chủ phát triển các công đoạn quan trọng như nhuộm, chế tạo các loại vải chất lượng cao để nâng cao giá trị sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 7-4-2020.

Ngành vải may của Việt Nam hiện đạt sản lượng 2,3 tỷ mét vuông/năm, đáp ứng khoảng 25% nhu cầu thị trường trong nước. Số còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài.

Trong quý I-2020, kim ngạch nhập khẩu bông, xơ, sợi, vải ước đạt 3,46 tỷ USD, giảm 16,5%; kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da – giày ước đạt hơn 1,13 tỷ USD, giảm 14,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019.

Nguồn: Bộ Công thương

[ad_2]