[ad_1]
Chỉ 133/3.143 doanh nghiệp được khảo sát đã tiếp nhận được các chính sách hỗ trợ theo Chỉ thị số 11 của Thủ tướng Chính phủ. Ảnh: TL
|
Tại hội nghị công bố báo cáo “Dệt may Việt Nam: Tác động của Covid-19 và xa hơn nữa” diễn ra chiều 29/6, TS. Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình MCSS, Trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện báo cáo cho biết, ngành dệt may Việt Nam đã tạo việc làm cho gần 2,6 triệu lao động, giải quyết 20% lao động ngành công nghiệp và gần 5% tổng số lao động cả nước.
Năm 2019, ngành dệt may là ngành có mức xuất khẩu lớn thứ ba với kim ngạch gần 40 tỷ USD, đóng góp khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Sắp tới, khi hiệp định EVFTA đưa vào thực thi, sẽ giúp giảm thuế bình quân với hàng may mặc Việt Nam từ 12% về 0%.
Qua báo cáo “Dệt may Việt Nam: Tác động của Covid-19 và xa hơn nữa”, nhóm nghiên cứu đã chỉ rõ những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến cả nguồn cung và đầu ra của ngành dệt may. Xét theo các thị trường xuất khẩu chủ chốt, 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 14,9%, thị trường EU giảm 19%.
“Với hiệu ứng của việc hiệp định thương mại tự do giữa VN và EU được phê chuẩn, dệt may Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào sáng tạo để tạo ra nhiều giá trị tăng thêm cho ngành. Để làm được việc đó, rất cần nhà nước có những thay đổi mạnh mẽ về chính sách và cơ cấu thuế, giá phù hợp”, TS. Thành nhận định.
Bà Hoàng Phương Thảo, Trưởng Đại diện của ActionAid Quốc tế tại Việt Nam chia sẻ, bản báo cáo là nghiên cứu đầu tiên trong chuỗi các hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa ActionAid Quốc tế tại Việt Nam và chương trình MCSS.
“Chúng tôi kỳ vọng các kết quả nghiên cứu có tính đột phá và thực tế như thế này sẽ được MCSS tiếp tục trong các nghiên cứu tiếp theo, đặc biệt quan tâm đến hiệu ứng của các chính sách vĩ mô tới cuộc sống và sinh kế của các nhóm yếu thế”, bà Thảo cho biết.
Bản báo cáo đã cung cấp những thông tin hữu ích cho ngành dệt may Việt Nam, nêu lên những khó khăn chung của ngành khi chịu tác động từ đại dịch Covid-19, bao gồm khó khăn về đầu vào, khó khăn về lao động, khó khăn về kinh doanh – doanh thu và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, còn có những rào cản về chính sách, khi quá ít doanh nghiệp dệt may thụ hưởng các giải pháp hỗ trợ (chỉ 133/3.143 doanh nghiệp, chiếm 3,6% tổng doanh nghiệp được khảo sát đã tiếp nhận được các chính sách hỗ trợ) hay việc khó tiếp cận được các giải pháp hỗ trợ tín dụng.
Đồng thời, Hiệp hội Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực này cho rằng việc giãn, giảm hoặc miễn thuế không có nhiều tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp của ngành. Ngoài ra qui định hoãn đóng bảo hiểm xã hội hiện chưa hợp lí, và người lao động không được hỗ trợ hiệu quả, trong bối cảnh Chính phủ có chính sách hỗ trợ người lao động bị buộc thôi việc do Covid-19 nhưng rất khó tiếp cận do thủ tục quá rườm rà.
Đáng chú ý, bản báo cáo còn nêu bật những khó khăn liên quan đến các hiệp định FTA của Việt Nam, bao gồm việc thiếu phân khúc sản xuất vải; không có chuỗi cung ứng đầy đủ nên khó tận dụng lợi thế FTA; không dễ dàng tận dụng được ưu đãi của EVFTA; không tận dụng được lợi thế của CPTPP hay mức thuế suất hàng dệt may vào Mỹ vẫn ở mức cao….
[ad_2]