[ad_1]
Phục hồi chậm chạp
Dịch bệnh đã khiến thương mại dệt may đình trệ trên quy mô toàn cầu khi Chính phủ các nước thực hiện cách ly phòng dịch. Nguồn cung gián đoạn trong quý I/2020 do dịch bệnh bùng phát trước tiên ở Trung Quốc, nhà cung cấp 80% nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam.
Đơn hàng bị cắt giảm hàng loạt tại EU và Mỹ khi dịch bệnh bùng phát tại đây từ cuối tháng 3 và đến nay chưa có dấu hiệu phục hồi. Sau 5 tháng đầu năm, xuất khẩu giảm mạnh tại hai thị trường Mỹ và EU (chiếm 60% tổng kim ngạch hàng năm) lần lượt giảm 15% và 19% so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may giảm 16% so với năm trước.
Sản xuất khẩu trang và bảo hộ y tế trở thành giải pháp tình thế nhưng cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm này ngày càng gay gắt với chi phí nguyên liệu và máy móc tăng liên tục và tồn kho thành phẩm quá lớn.
Theo VDSC, ngành dệt may sẽ phục hồi chậm chạp do kinh tế khó khăn. Đàm phán đơn hàng mới khó khăn do các lệnh cấm nhập cảnh và cách ly bắt buộc tại nhiều nước.
Đặt hàng sẽ tăng từ cuối quý III nếu các thị trường không đóng cửa cách ly trở lại. Tuy nhiên, tiêu thụ nếu có tăng đột biến cũng chỉ kéo dài trong vài tháng do lực cầu dồn nén trong thời gian cách ly. Theo ITMF, doanh thu các doanh nghiệp dệt may trên toàn cầu năm 2020 có thể giảm 33% so với năm 2019.
VDSC cho rằng, Việt Nam có thể nhận được nhiều đơn hàng hơn nước khác do khả năng kiểm soát dịch bệnh tốt hơn. Các năm tiếp theo tiến trình phục hồi của ngành sẽ gắn liền với triển vọng phục hồi kinh tế thế giới, cụ thể là tỷ lệ có việc làm ở Mỹ và EU.
Dư địa tăng trưởng còn nhiều
Theo thống kê, EU chiếm 34% tổng nhập khẩu hàng dệt may thế giới với nhu cầu hàng may mặc tăng 3%/năm nhưng Việt Nam hiện chỉ chiếm 2,2% thị phần.
Các đối thủ chính của Việt Nam tại EU đều có lợi thế vượt trội về thuế quan như: Bangladesh và Campuchia được miễn thuế theo chương trình EBA, Pakistan được miễn thuế theo chương trình GSP+. Việt Nam đang hưởng thuế GSP tiêu chuẩn: 2-6,4% với hàng sợi và vải; 9,6% với hàng may mặc cùng với Ấn Độ. Trung Quốc là đối thủ lớn nhất nhưng chịu thuế MFN và đang giảm tăng trưởng để bảo vệ môi trường.
Theo EVFTA , 43% mặt hàng được loại bỏ thuế nhập khẩu ngay lập tức khi EVFTA có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại được giảm thuế về 0% theo lộ trình 4,6 và 8 năm.
EU là thị trường dệt may lớn thứ 2 Việt Nam chiếm 16,3% tổng kim ngạch năm 2019. Gần 90% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU là hàng may mặc.
Sợi và vải được giảm thuế về 0% ngày khi EVFTA có hiệu lực nhưng do sợi và vải chỉ chiếm 4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào EU, lợi ích thuế quan đối với toàn ngành là không đáng kể.
Khi EVFTA có hiệu lực, ưu đãi GSP sẽ chấm dứt và thuế nhập khẩu vào EU dành cho Việt Nam sẽ cao hơn mức 9,6% hiện tại trong năm đầu tiên. Nhóm B5 và B7 chiếm 77% tổng giá trị hàng may mặc sẽ không được hưởng lợi ngay trong năm 2020. Nhóm B3 sẽ hưởng lợi ngay nhưng lợi ích cho toàn ngành không đáng kể do chỉ chiếm 6% tổng giá trị hàng may mặc.
Cơ hội lớn nhưng chưa thể tận dụng được
Theo VDSC, khả năng tận dụng ưu đãi từ EVFTA phụ thuộc khả năng chuyển đổi nguồn nguyên vật liệu từ Trung Quốc sang nội địa hoặc Hàn Quốc, Nhật.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may phải chọn được nhà cung cấp đáp ứng được các yêu cầu về giá, mẫu mã, chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng. Trong khi đó vải Việt Nam còn kém về chất lượng, mẫu mã và sản lượng thấp.
Do đó, các doanh nghiệp dệt may cần liên kết xây dựng các tổ hợp sản xuất theo chuỗi Sợi – Dệt – Nhuộm – May để đáp ứng quy định về xuất xứ của thị trường, vừa đảm bảo đầu ra cho sản phẩm và sức cạnh tranh với các cường quốc dệt may khác.
Tiềm năng hưởng lợi lớn nhất là các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu nhiều vào EU và/hoặc tự xây dựng được chuỗi cung ứng nguyên vật liệu tốt.