Nếu tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng đột biến khoảng 20-30% trong các quý tới, Việt Nam có thể bị vào diện theo dõi đặc biệt từ Mỹ và áp dụng mức thuế cao hơn.
SSI Research vừa công bố báo cáo ngành dệt may với nhận định mặc dù đang chuyển mình, song tăng trưởng năm 2018 sẽ không đáng kể.
Cụ thể theo VITAS, tổng nhu cầu dệt may toàn cầu năm nay dự kiến sẽ tăng trưởng khiêm tốn 1-2% hoặc thậm chí không thay đổi so với năm 2017. Mục tiêu giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2018 vẫn còn khá tham vọng, dự kiến đạt 34 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2017. Trong 5 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ước đạt 13,3 tỷ USD (tăng 16,48% so với cùng kỳ), đạt 38% kế hoạch đề ra.
Vốn FDI vào Việt Nam dự kiến sẽ tăng và nắm bắt cơ hội nhờ kỳ vọng tăng trưởng từ cả Hiệp định CPTPP và EVFTA. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cả hai thỏa thuận sẽ chưa có hiệu lực trước nửa cuối năm 2019. Khi CPTPP có hiệu lực, ngành dệt may của Việt Nam hy vọng sẽ được hưởng lợi nhờ tăng doanh thu xuất khẩu, đặc biệt là được xuất khẩu đến Canada, Mexico và Australia, 3 thành viên CPTPP mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự do (FTA). Với giá trị của 3 thị trường này là khoảng 10-13 tỷ USD, và thị phần của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu là 300 triệu đến 500 triệu USD, riêng Vinatex (VGT) dự báo có thể tăng giá trị xuất khẩu lên 50 triệu USD đến mỗi quốc gia trong 3 quốc gia thành viên này năm đầu tiên khi CPTPP có hiệu lực.
Tuy nhiên, cạnh tranh vẫn còn căng thẳng khi các nước xuất khẩu dệt may khác đang hành động để duy trì và tăng thị phần bằng các chính sách về bảo hiểm xã hội, thuế… để hỗ trợ ngành của họ. Ví dụ, Bangladesh đã giảm thuế nhập khẩu vải lanh và sợi spandex từ 10% xuống còn 5% và cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hóa chất nhuộm từ 25% xuống còn 15%. Pakistan đã áp dụng một chế độ miễn thuế đối với nguyên liệu thô và năng lượng cho xuất khẩu dệt may. Trong khi, ngành may mặc của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đối với thiết bị máy móc và nguyên liệu thô, không chỉ làm giảm biên lợi nhuận mà còn bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá.
Cuối cùng, bất ổn liên quan đến cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ cũng là lý do để Việt Nam trì hoãn. VGT cho rằng nếu tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng đột biến khoảng 20-30% trong các quý tới, Việt Nam có thể bị vào diện theo dõi đặc biệt từ Mỹ và áp dụng mức thuế cao hơn.
Tỷ lệ nội địa hóa năm 2017 đạt 50%
Điểm lại năm 2017 – là năm thứ tư liên tiếp mà nhu cầu dệt may toàn cầu hầu như không đổi. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tổng nhu cầu đạt 674 tỷ USD, giảm nhẹ -0,85% YoY. Căng thẳng địa chính trị, chính sách kinh tế theo chủ nghĩa bảo hộ, và việc ngừng ký kết Hiệp định TPP tạo ra sự bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu và thương mại nói chung. Những yếu tố này ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may tại các thị trường lớn.
Trong bối cảnh đó, dệt may Việt Nam đạt kết quả đáng kể về tăng trưởng xuất khẩu so với các quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu như Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh.
Nguồn: Vinatex.
Về xuất khẩu, trong khi tăng trưởng ngành dệt may toàn cầu chững lại, ngành dệt may Việt Nam đã vượt qua các thị trường khác với mức tăng trưởng ổn định và giá trị xuất khẩu đạt 31,2 tỷ USD, tăng 10,81% so với năm 2016, và nhập khẩu nguyên liệu thô đạt 19,6 tỷ USD, tăng 13,2%, với tỷ lệ nội địa hoá là 50%. Các thị trường lớn của Mỹ (12,5 tỷ USD, + 7,1% YoY), Liên minh châu Âu (9 tỷ USD, + 9,1% YoY), Nhật Bản (3,3 tỷ USD, + 8,2% YoY) và Hàn Quốc (3 tỷ USD, + 15,5% YoY) ) duy trì tăng trưởng tốt, có những đột phá trong xuất khẩu sang các thị trường khác, điển hình là Trung Quốc (3,3 tỷ USD, + 26% YoY).
Mặt khác, đã có sự chuyển dịch về số lượng đơn đặt hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Có thể thấy, tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc giảm gần bằng mức tăng xuất khẩu của Việt Nam trong năm ngoái (~ 3 tỷ USD). Việt Nam có vị trí sát với Trung Quốc, chi phí nhân công cạnh tranh, và mạng lưới các hiệp định thương mại là lợi thế cạnh tranh giúp Việt Nam trở thành điểm đến Trung Quốc.
Điển hình các thành phố như Hải Phòng chỉ cách phân xưởng sản xuất của Trung Quốc là Thâm Quyến khoảng 865 km. Ngoài ra, Việt Nam có khoảng cách từ các nhà máy sản xuất đến cảng biển gần hơn, giúp giảm chi phí logistics và vận tải so với Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc cũng đang từng bước chuyển trọng tâm kinh tế vĩ mô từ hàng dệt may sang các ngành công nghiệp khác như công nghệ.
Tuy nhiên, so với các đối thủ cạnh tranh, thời gian và chi phí liên quan đến thủ tục hải quan tại Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước khác. Theo VGT, gần đây, ngành dệt may đã đầu tư một lượng vốn lớn vào máy móc và thiết bị để tăng tính tự động hóa trong quy trình sản xuất chung nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nhân công, vì vậy Việt Nam vẫn còn một chặng đường dài để bắt kịp các chỉ số sản suất của các nước trong khu vực. Ngày càng nhiều đơn hàng với số lượng nhỏ hơn và thời gian giao hàng ngắn hơn giờ đây là vấn đề ‘nan giải’ đối với ngành may mặc và chuỗi cung ứng của ngành.
Nguồn Tri thức trẻ